Chuyện nhà họ Phương chuẩn bị đưa Dạng Dạng đi, thực ra trong khu tập thể không mấy ai biết . Thời buổi bây giờ, ngay cả cán bộ công nhân viên cũng chẳng còn được trọng dụng như xưa, người người chỉ mong sao yên ổn qua ngày. Phố ngõ từng nhộn nhịp tiếng nói tiếng cười, nay hoang hoải như cánh đồng sau bão. Cửa đóng then cài, nhà ai biết lo nhà nấy. Tin tức gì cũng như rác, đầy tai mà chẳng ai dám đem ra bàn tán.
Dẫu vậy, những người thân quen lâu năm, dù cũng hạn chế lui tới, nhưng nghĩa cũ chưa từng đứt đoạn.
Chu Thừa Khang nghe tin Dạng Dạng sắp lên đường, lòng ông khẽ thắt lại. Bao năm nay con cháu trong nhà đều đã ra riêng, chỉ còn mình ông với bốn bức tường. Ngoài có chút tiền , chẳng còn gì. Chính vì vậy , mà lần này tiễn biệt, ông mang theo một đống đồ bổ tới cửa , ra tay cũng coi như hào sảng.
Tối hôm đó, nhà lão Trần cũng ghé lại ăn cơm. Không ai nói gì nhiều, nhưng trong lòng mỗi người đều mang một nỗi riêng.
Trong bếp, Lý Đoan Ngọc đang cùng Phương Tuấn Khanh đang loay hoay làm bữa. Mới nghe khách đến, bà còn chưa kịp cùng khách khách sao đôi câu, thì Lưu Tuệ Trân, vợ lão Trần, đã quen tay vén áo, lặng lẽ vào bếp giúp một tay.
Phương Tuấn Khanh thấy vậy liền tự giác tháo tạp dề, nhường chỗ rồi lui ra ngoài chuẩn bị chén đũa. Đợi ông khuất dáng, Lưu Tuệ Trân mới nhẹ nhàng kéo tay Lý Đoan Ngọc, thấp giọng hỏi:
"Chị dâu… Chị thật không theo Dạng Dạng lên Tây Bắc sao?"
Tay bà Đoan Ngọc vẫn rửa rau đều đều, chỉ hơi khựng lại trong chớp mắt. Một lát sau, bà khẽ gật đầu, giọng nhỏ nói :
"Tôi ở lại bầu bạn với lão Phương."
Lưu Tuệ Trân nghe vậy chỉ khẽ thở dài, giọng cũng trầm xuống:
“Bầu bạn cũng tốt... Mấy người như lão Phương, như lão Trần nhà em, đều là cứng đầu cứng cổ, thà chịu khổ chứ không chịu khuất phục. Phải đi đến nơi kia... thật sự không dễ sống .”
Dứt lời, bà ghé sát lại, giọng càng nhỏ hơn:
"Chị còn nhớ nhà giáo sư Đồ, ở khu nhà kiểu Tây, Bắc Uyển không?"
Nghe nhắc đến cái tên này , Lý Đoan Ngọc khẽ cau mày, ngoảnh sang nhìn Tuệ Trân, ánh mắt vừa nghi hoặc vừa thoáng bất an:
— Nhớ chứ… Sao thế?
Khu Bắc Uyển… nơi từng là chốn ở dành riêng cho giáo thụ cao cấp của Nam Đại. Năm đó, khi Phương Tuấn Khanh nhận lời về giảng dạy, nhà trường vốn đã bố trí cho gia đình hộ một căn nhà trong khu ấy – nhà kiểu Tây, hai tầng, gạch xanh mái ngói, một thời từng là biểu tượng của tri thức và phong lưu. Nhưng dở ở chỗ, phòng còn đang sửa, cả nhà tạm vào khu tập thể của công nhân viên chức ở. Ai ngờ, cái "tạm" kéo dài hết năm này qua năm khác.
Về sau, phòng sửa xong, nhưng họ chẳng buồn chuyển đi nữa. Một phần vì bận, phần khác là vì sức khỏe Dạng Dạng khi đó yếu lắm. Thời kỳ ấy, dù ai ai cũng hô hào “bài trừ mê tín phong kiến”, nhưng lòng người mẹ nào lại chẳng mang chút bất an. Đoan Ngọc khi đó âm thầm về quê nhờ người giới thiệu, tìm một bà đồng xem vận mệnh. Người kia chỉ nói một câu: "Đứa nhỏ căn cơ mỏng, tuyệt đối không được dời chỗ ở trong vòng ba năm." Thế là bà đem chuyện về bàn với ông Phương. Dẫu cả hai đều là người học hành bài bản, tin vào lý lẽ, nhưng khi liên quan đến sinh mạng cốt nhục, lý trí cũng khó mà thắng nổi tình thân.
Cứ thế, họ ở lại nơi này . Lặng lẽ, đơn sơ, không tranh không giành.
Không ai ngờ, quyết định ấy lại thành phúc lớn.
Năm 1966, khi Cách mạng Văn hóa nổi lên như cơn lốc, mọi giá trị cũ đều bị xới tung. Ủy ban Cách mạng lên nắm quyền, mở phong trào “thanh lý tư tưởng phản động”, đào tận gốc những gì bị cho là “tàn dư tư sản”. Những bức “đại báo” viết bằng chữ to, mực đen nhem nhuốc, bắt đầu tràn ngập tường rào, cổng ngõ. Tên ai bị dán lên là y như rằng gặp họa: nhẹ thì bị gọi đấu tố, nặng thì bị lôi đi cải tạo, thậm chí mất tích không lý do. Bắc Uyển – nơi từng là chốn thanh cao của giới trí thức – chỉ trong chớp mắt đã biến thành cái rọ sắt giam hãm nhân tài.
Có gia đình tối đó còn gặp , chỉ sau một đêm, sáng hôm sau người xung quanh đã phát hiện căn nhà của họ bị niêm phong, gia quyến ly tán. Có người bị đánh đến sống dở chết dở, có người… chẳng bao giờ trở về nữa.
Nhớ đến những điều đó , Lý Đoan Ngọc như thấy lưng mình lạnh toát. Bà và Phương Tuấn Khanh từng lặng lẽ ngồi bên nhau trong bóng tối, nhìn ánh đèn khu Bắc Uyển chớp tắt giữa đêm, cảm thán: may mà mình chưa dọn đi.
Từ đó, hai vợ chồng không hẹn mà cùng thống nhất không nhắc tới nơi ấy nữa. Mãi đến nay, khi nghe Lưu Tuệ Trân nhắc lại, tim bà như bị bóp nghẹn. Đôi tay đang rửa rau khựng lại, nước chảy ròng ròng mà không biết lạnh. Bà thẳng lưng, ngẩng đầu, giọng khô khốc :
"Lão Đồ… ông ấy làm sao rồi?"
“Ông ấy… mất rồi.”
Lưu Tuệ Trân nói khẽ, giọng như sợi tơ mong manh giữa gió chiều. Nhưng với Lý Đoan Ngọc, câu nói ấy lại rơi xuống như một tảng đá lớn, nặng trĩu trong lòng ngực.
Bàn tay bà khựng lại giữa chậu nước lạnh, lá rau non bị bóp nát lúc nào chẳng hay. Một hồi lâu sau, bà mới cất giọng, ngập ngừng như không dám tin vào điều vừa nghe thấy:
“Mất … mất rồi ?”
Lưu Tuệ Trân liếc nhanh về phía cửa bếp, xác nhận Phương Tuấn Khanh chưa quay lại, mới khẽ gật đầu, giọng trầm hẳn:
“Nghe nói… ông ấy có bà con bên ngoại đang sống ở nước ngoài. Chỉ vì chút dây mơ rễ má như thế mà bị quy là ‘liên hệ phản động’. Bắt đầu từ đó, mọi thứ đều thay đổi. Chị cũng biết ông ấy mà , ông ấy là người đọc sách cả đời, từng là giảng viên đại học, dạy người , đào ươm mầm tương lai của đất nước, tính tình tuy có chút ngạo mạn, nhưng là cái ngạo khí của người quen sống cùng sách vở, thẳng thắn, không nịnh nọt, không xu thời, chứ chẳng phải ngạo mạn vô căn cứ. Đáng tiếc... thời thế đổi thay, học vấn thành gánh nặng, chữ nghĩa thành cái tội, bị chà đạp, lẽ phải bị bóp méo, thì trí thức như ông ấy , như lão Phương nhà chị , lại như lão Trần nhà em Thế nhưng ... chẳng khác nào con cá mắc cạn.”
Bà dừng lại một chút, ánh mắt dường như đang lạc về một dĩ vãng đã mờ bụi, rồi lại tiếp tục, giọng trầm lắng hơn:
“Năm ngoái, sau đợt ‘thanh lọc tư tưởng’, Ủy ban Cách mạng đến tận trường niêm yết thông báo. Ép viết kiểm điểm, ép ‘tự phê’. Học trò từng được ông ấy dạy dỗ lại quay sang viết báo cáo tư tưởng. Đổi trắng thay đen chỉ trong một tờ giấy, còn lương tri thì chẳng ai dám giữ. Ông ấy không phản kháng, cũng chẳng tranh cãi, chỉ lặng lẽ gấp sách lại, rời khỏi cổng trường , rồi... kể từ lúc đó , không một ai còn trông thấy ông ấy quay lại nữa."
Giọng Lưu Tuệ Trân khàn đi:
“Nhưng đau đớn nhất... không dừng lại ở đó.”
Nghe đến đây, tay Lý Đoan Ngọc khẽ run. Nước trong chậu đã lạnh toát, nhưng trái tim bà lại nóng lên từng nhịp đập gấp gáp.
“Con trai ông ấy bị điều đi khai hoang tận vùng núi sâu. Gặp phải lợn rừng, hoảng loạn bỏ chạy, lại không biết đường, trượt chân ngã xuống sườn núi, hai chân... bị gãy . Mãi sau mới được người ta phát hiện, khi ấy máu đã khô, cả người bẩn thỉu bết bùn, hai chân cũng đã qua thời gian cứu trị , từ đấy không còn hy vọng đứng lên được nữa . Còn con gái, vội vã gả chồng, chỉ mong có nơi nương thân. Nhưng cưới phải một kẻ tồi tệ—lợi dụng của hồi môn của Đồ gia xong thì trở mặt. Sau đó thì ba ngày đánh một trận nhỏ , năm ngày đánh một trận to , mắng nhiếc càng là không ngừng nghỉ. Đến khi nghe tin anh trai cô ấy bị tàn phế, bên nhà chồng lập tức trở mặt, chẳng còn giữ chút thể diện nào, hành hạ càng không kiêng dè.”
Không khí trong bếp như đông đặc lại, chỉ còn tiếng nước nhỏ giọt từng nhịp buốt giá.
Lưu Tuệ Trân khẽ thở dài, đáy mắt dâng lên một tầng sương mỏng:
“Ông ấy là người đọc sách, lại càng là người cha. Khi nghe tin hai đứa con rơi vào tình cảnh ấy… ông ấy không gào thét, không oán than. Chỉ lặng lẽ uống thuốc, rồi cứ thế ... buông tay.”
Lý Đoan Ngọc đứng im, đôi tay vẫn chìm trong chậu nước lạnh buốt, như không cảm nhận được điều gì nữa. Bà cất giọng khàn khàn, nghèn nghẹn:
“Chắc ông ấy… tự trách lắm?”
Lưu Tuệ Trân khẽ gật đầu:
“Hẳn là !"
Tự trách mình học vấn đầy người mà chẳng bảo vệ nổi vợ con. Tự trách cái gọi là thanh cao ngày trước, cuối cùng lại trở thành tai họa giáng xuống cả nhà. Những năm tháng sống dưới cái bóng của nghi ngờ và tố cáo, ông ấy mang trong lòng không chỉ là đau đớn—mà là sự giằng xé, là cảm giác bất lực tận cùng của một trí thức bị bẻ gãy.”
Cả hai người phụ nữ lặng thinh thật lâu.
Ánh mắt họ dần chùng xuống, nhớ về Đồ gia—về những đứa trẻ vốn dĩ tri thư đạt lễ, bộ dạng sáng sủa, tương lai hẳn sẽ rực rỡ nếu được sống trong một thời đại khác. Nhưng tất cả bị vùi lấp bởi phong trào, bởi lời tố cáo, bởi sự im lặng của xã hội.
Lão Đồ ra đi, không chỉ vì tuyệt vọng, mà còn vì ông ây biết rằng mình không còn chỗ đứng nào trong thời đại này . Một thời đại mà trí tuệ trở thành gánh nặng, đạo đức trở thành mối nghi ngờ, và lặng im... lại là thứ tiếng nói duy nhất của những người còn giữ cho mình chút liêm sỉ.
Như tất cả những gì mà bọn họ, những người đang ở đây, có thể làm. Không chỉ là vì bản thân mình , mà còn vì vợ , chồng , con cái , vì những người thân yêu .
Trong gian bếp chật hẹp, chỉ còn tiếng lửa lép bép, tiếng thìa va vào nồi, và hai trái tim người mẹ đang nặng trĩu vì một nỗi xót xa không thể thốt nên lời.